Tử Vi Đấu Số Toàn Thư - Vũ Tài Lục - Những Thuật Ngữ Cần Biết

Những thuật ngữ cần biết

Thuật ngữ để chỉ dụng cụ hoặc một tình trạng. Khoa Tử Vi đẩu số, chữ đẩu đầy nghĩa là ngôi sao cho nên tên sao và tính chất sao cùng với sự kết hợp các sao lại thành từng chùm mang những thuật ngữ riêng biệt. Tử Vi đẩu số có bao nhiêu sao tất cả ?

Ghi trong Tử Vi đẩu số toàn thư chỉ thấy chòm sao chính là 14 vị :
Tử Vi – Thiên Cơ –Thái Dương – Vũ Khúc – Thiên Đồng – Liêm Trinh – Thiên Phủ – Thái Âm – Tham Lang – Cự Môn – Thiên Tướng – Thiên Lương – Thất Sát – Phá Quân.

Sau đây là các phụ tinh như :
Văn Xương – Văn Khúc – Tả Phụ – Hữu Bật – Thiên Khôi – Thiên Việt – Thiên Ma – Lộc Tôn – Kình Dương – Đà La – Hoả Tinh – Linh Tinh – Hoá Quyền– Hoá Lộc – Hoá Khoa – Hoá Kị – Thiên Không – Địa Kiếp – Thiên Khương – Thiên Sứ – Thiên Đức – Nguyệt Đức – Long Tri – Phương Các – Thai Phụ – Phong Các – Hồng Loan – Thiên Hỉ – Tam Thai – Bát Toạ – Thiên Hình – Thiên Diệu – Đẩu Quân.

Rồi đến chòm sao đi theo Thái Tuế, chòm sao đi theo Lộc Tồn, chòm sao Tràng Sinh. Mỗi chòm 12 vị ;

Rồi đến Triệt lộ không vong và Tuần trung không vong cộng lại là 85 vị.
Nhưng sách Tử Vi ở Việt Nam do tổ tiên chúng ta truyền lại thì thấy có thêm nhiều sao khác không ghi trong Tử Vi đẩu số toàn thư của Trần Đoàn như các sao : Đào Hoa – Thiên Tài – Thiên Thọ – Phá Toái – Kiếp Sát – Thiên Y – Thiên Trú – Thiên Giải Địa Giải – Giải Thần – Địa Không – An Quang – Thiên Quí – Cò Thần – Quả Tú – Lưu Hà – Thiên Quan – Quí Nhân – Thiên Phúc.

Tổng cộng lại là 104 vị.
Các cụ đã căn cứ vào đâu mà thêm vào không hiểu hoặc giả sách Tử Vi đẩu số toàn thư chính bản đã sang bên ta, nên bản lưu bên chính quốc bị ghi chép thiếu sót. Nếu vậy, tại sao không có những lời giải thích rõ ràng về các sao : Giải Thần – Địa Giải – Thiên Trú – Thiên Giải mà chỉ có vài lời nghe thật gượng ép. Trừ sao Đào Hoa thì có thể nói Tử Vi đẩu số toàn thư bị thiếu, vì sao này rất quan trọng trong phép tính số Tử Bình và cách an sao không khác phép tính số Tử Vi. Tính (sao) còn gọi là Diệu. Tỉ dụ 14 sao thuộc chòm Tử Vi Thiên Phủ là chính diệu (sao chính), nếu cung mệnh không có sao chính thì gọi là mệnh vô chính diệu.

Sách đẩu số mệnh lý cho rằng : Tả Phụ – Hữu Bật – Văn Xương – Văn Khúc – Lộc Tồn cũng là chính tinh nữa. Còn cổ truyền khoa Tử Vi của ta thì căn cứ vào Tử Vi đẩu số toàn thư nên chỉ có 14 vị là chính tinh mà thôi.
Các sao :
Kình Dương – Đà La – Hoả Tinh – Linh Tinh – Thiên Khôi – Thiên Việt – gọi là Thiên diệu.
Hóa Lộc – Hoá Quyền – Hoá Khoa – Hoá Kị gọi là hoá diệu hay tứ hoá.
Ngoài ra các sao khác là tạp diệu.
Lại có những tên gọi riêng như Tứ Cát (bốn sao tốt) là Lộc, Quí (gồm Khôi Việt), Quyền, Khoa. Tứ hung hay tứ sát (bốn sao hung) là Hoả, Linh, Dương, Đà.
Những sao đi đôi, đi cặp là : Tử Phủ (hay Tử Vi – Thiên Phủ), Tử – Tướng, Phủ – Tướng,Nhật – Nguyệt, Tả – Hữu, Xương – Khúc, Không – Kiếp, Hoả – Linh, Dương – Đà, Khôi – Việt.

Tam hợp là gì ?
Mỗi là số tử vi có 13 cung theo 12 chi, mỗi cung khi tính sao được tính theo tam hợp tức là hội các sao của 3 cung lại. Ba cung nào ? Phải theo nguyên tắc sau : Thân Tý Thìn, Tị Dậu Sửu, Hợi Mão Mùi, Dần Ngọ Tuất.
Lục xung là gì ?
Tí – Ngọ xung – Sửu - Mùi xung – Dần -Thân xung – Mão –Dậu xung – Thìn –Tuất xung– Tị –Hợi xung.
Thủ – đồng là gì ?
Một chính tinh đóng ở mệnh cung là thủ mệnh. Hai chính tinh đóng ở mệnh là đồng hoặc đóng ở các cung khác cũng vậy.
Lâm – Nhập là gì ?
Hai chữ trên mang cùng một nghĩa, nhưng sao tốt đóng ở đâu gọi là lâm, sao xấu đóng ở đâu gọi là nhập.
Miếu – Hãm là gì ?
Mỗi sao cần phải đứng tại vị trí đúng chỗ của nó, đứng sai chỗ gọi la Hãm, đứng đúng chỗ gội là Miếu. Còn có những danh từ khác chỉ sự đúng chỗ như vượng địa, đắc địa, tuy nhiên, miếu địa vẫn là nhất. Đúng chỗ mới lợi, sai chỗ vô ích hoặc bất lợi.
Tỉ dụ : vua Văn Vương bị bắt giam trong tù, Tỉ Can đi thờ vua Trụ.

Toạ – Cứ là gì ?
Toạ chỉ sao tốt ngồi tại cung nào. Cứ tức chiếm cứ chỉ sao xấu xâm nhập tại cung nào.
Bản phương – Hợp phương – Lân phương là gì ?
Bản phương là cung chủ yếu ta căn cứ vào đó để tính. Tỉ dụ : Mệnh ở cung Mão thì Hợp phương theo tam hợp thì có Hợi và Mùi.
Còn Lân phương là cung bên cạnh. Tỉ dụ : Thìn và Dần là lân phương của Mão.
Triều và xung là gì ?
Sao tốt đóng tại cung khác theo tam hợp và chiếu hướng về cung chủ yếu gọi là Triều. Sao xấu cùng một trường hợp trên gọi là Xung. Riêng sao Thái Âm, Thái Dương không dùng chữ Triều mà dùng chữ Chiếu. Riêng sao Lộc Tồn và Hoá Lộc không dùng chữ Triều mà dùng chữ Củng.
Giáp – Chiếu – Hiệp là gì ?
Các sao tốt đóng hai cung bên canh cung mệnh (lân phương) gọi là Giáp. Tỉ dụ : giáp Nhật– Nguyệt, giáp Tả – Hữu.
Chiếu là sao ở cung đối xung ảnh hưởng tới. Tỉ dụ : Ngọ chiếu Tí, Dậu chiếu Mão hoặc ngược lại.
Về câu / Chính không bằng Chiếu, Chiếu không bằng Giáp/ không thể áp dụng cho bất cứ sao nào. Tỉ dụ : Thái Âm , Thái Dương cần Chiếu, Tả Phụ, Hữu Bật cần Giáp.


Tứ Yếu – Thập dụ – Bát pháp

Các sao phân phối đóng tại 12 cung, biến hoá vô cùng. Có bốn điểm trọng yếu để phân biệt :
a) Cát hung – b) Hư thực – c) Chủ khách – d) Cường nhược.
Cát hung.
Sao có sao thiện, sao ác ; thiện là cát tinh, ác là hung tinh. Hung hay cát không phải chỉ căn cứ trên tính chất mỗi vị sao mà còn căn cứ trên chỗ đứng của nó đúng hay sai, miếu địa hay hãm địa.
Hư thực thế nào ?
Sao tốt làm miếu địa mới là thực cát, thực cát thì không hung dù gặp hung cũng chẳng sợ. Sao xấu rơi vào hãm địa mới là thực hung, thực hung thì không cát, dù gặp cát cũng khó lòng giải. Sao tốt ở hãm địa là hư cát, hư cát là không tốt, còn có thể biến cát thành hung. Sao xấu ở miếu địa là hư hung, hư hung là không hung, còn có thể biến hung thành cát.

Chia chủ khách ra sao ?
Lấy các sao ở bản phương lam chủ, các sao tại cung tam hợp hay xung chiếu là khách. Nếu như bản phương không có chính tinh tức không có chủ thì phải mượn sao ở cung xung chiếu làm chủ, các sao cung tam hợp làm khách. Trong trường hợp cả hai cung xung chiếu cùng vô chính tinh thì chỉ lấy sao khách mà luận cát hung.
Cường nhược đây ý nói cường nhược trong tương quan chủ khách. Khách với chủ đều tốt là khách chủ tương đắc hay khách chủ đều xấu là một bầy bạo ngược thì khỏi phải đặt vấn đề cường nhược. Chủ khách vừa hung vừa cát thì phải xét chủ mạnh hay khách mạnh. Nếu chủ mạnh thì khách theo chủ, nếu chủ yếu thì khách kéo chủ đi. Cát cường cát thắng, hung cường hung thắng.

Thập dụ là gì ?
là mười điều căn bản cho việc xem số ở mỗi cung cung với cát cung tam hợp và cung xung chiếu :
1. Bản phương tốt (cát) là / do nội tự cường/ mạnh từ bên trong mạnh ra.
2. Bản phương xấu (hung) là /tòng căn tự phạt/ hư từ gốc rễ.
3. Cung xung chiếu tốt là /nghênh xuân tiếp phúc/ chờ xuân đón phúc.
4. Cung xung chiếu xấu là /đương đầu ác bổng/ giơ đầu chịu búa đập.
5. Cung tam hợp tốt là /tả hữu phùng nguyên/, lắm chân tay giúp đỡ.
6. Cung tam hợp xấu là /tả hữu thụ địch/, địch từ bên phải, bên trái đánh tới.
7. Lân phương (cung đằng trước đằng sau) tốt là /lưỡng lân tương phù/ hai bên hàng xóm phù trợ. 8. Lân phương xấu là /lưỡng nan tương vũ/, hai bên hàng xóm mưu hại.
9. Cả bốn cung cùng tốt là /thiên tường vàn tập/, mây ngũ sắc kéo về chầu.
10. Cả bốn cung cùng xấu là /tứ diện sở ca/ bị vây tứ phía không lối thoát.

Bát pháp là tám lối định cách cục khi xem số. Mệnh ai cũng thế, đều có cách cục ví như hình vuông, hình tròn, to nhỏ, đẹp xấu, lành vỡ của đồ vật. Cách cục của số mệnh nói cho hết thì nhiều vô cung nhưng đây dùng lối quy nạp để đưa thành tám lối. Chia ra như sau :
A. Thành phá tứ pháp : phàm lệnh thân bản phương có sao tốt gặp các sao khác ở cung tam hợp và xung chiếu nếu gặp :
- Khoa Quyền Lộc Quý thì kể như các cục thành, đáng phê mấy chữ /giao Long đắc vận vũ/ (con rông gập mây nước).
- Nếu gặp tứ hung Hỏa Linh Dương Đà thì kể như phá cách loại /miêu nhi bất tú/(chỉ nẩy mầm mà không xanh tốt).
- Nếu vừa gặp tứ hung lẫn tứ cát thì kể như trong thành có phá, chẳng khác chi /bạch khuê hữu điềm/ (viên ngọc trắng bị vết nứt, vết mẻ). Cả tứ hung lẫn tứ cát đều không thi kể là cách chưa thành nhưng không bị phá, chờ xem hạn ra sao giống như /hỗn kim phác ngọc/ (vàng còn lẫn các khoáng chất tạp nhạp, ngọc chưa được lấy khỏi đá).

B. Cứu Khí tứ pháp : Phàm mệnh thân cung mà các xung cung chiếu tam hợp đều có hung nếu :


- Gặp Lộc Quí Quyền Khoa là cứu cách, hạn hán lâu ngày được cơn mưa /cửu hạn phùng cam vũ/.


- Gặp Hoả Linh Dương Đà là khí cách (bỏ đi), cây gỗ mục không thể khắc đẽo gì được, /hử mộc nan điêu/.
- Gặp vừa tứ cát vừa tứ hung là vừa cứu vừa khí cách, giống như ăn gân gà /thực kê lặc/.
- Không gặp cả tứ cát lẫn tứ hung là cách /thủ tàu bảo khuyết/, nấn ná đợi thời.

Chư tinh vấn đáp luận
Các sao trong Tử Vi đẩu số chia làm 3 loại : thiện cát, hung cát và hoà giải. Tuy nhiên,đừng quên rằng sự sắp xếp vị trí của sao trong lá số mới quan trọng về cát hung chứ không phải chỉ căn cứ vào bản chất cố hữu của từng sao vì như đã nói ở trên dịch lý là biến, biến cát thành hung, hung thành cát tuỳ theo mỗi sao ở miếu hay hãm địa. Sách có câu : / Cát tinh nhập miếu tắc vi cát, hung tinh thất địa tắc vi hung/ là nghĩa vậy. Tất sẽ có người thắc mắc hỏi :
/ Nếu phải chờ miếu hãm rồi mới định cát hung, rồi hung biến cát, cát biến hung thì còn phân định sao thiện cát, hung ác làm gì cho rắc rối ?/.
Người xưa giảng rằng :
/Bản chất cố hữu của sao rất cần, nếu ta luận nó qua quan niệm /tính mệnh/ tính thế nào, mệnh sẽ do tính mà thành. Người có nhiều hung tinh mà vinh hiển thường vất vả, gian nan. Người có nhiều cát tinh thường đến với vinh hiển dễ dãi hơn, từ từ và chắc chắn, trong khi hung tinh đắc cách phát dã như lôi, lên như sấm sét thật đấy nhưng cũng phải vượt nhiều hiểm nguy.Xét vị trí xong rồi, điểm quan trọng thứ hai là tiềm hiểu những sao bạn đi cặp với sao chủ. Bạn hư chủ hỏng.
Về khả năng hoá giải cả sao hung lẫn sao cát đều có. Nhưng sao cát thường ở vai trò này nhiều hơn sao hung. Một khi sao hung đã được giáo phó nhiệm vụ hoá giải, nó sẽ thi hành triệt để hơn sao cát.Do những lẽ kể trên, khi luận về các sao phải lưu ý nhiều mặt chỉ sơ một ly sẽ đi một dặm. Tử Vi khác với Tử Bình, ở chỗ cái lý nó tản mạn không có nguyên tắc nhất định, dĩ nhiên, nếu bây giờ được ông Hi Di Trần Đoàn mà nói chuyện trực tiếp thì nguyên tắc nhất định kia tất phải có. Chỉ vì nó tam sao thất bản mất mát hay bị bí truyền nên mất đi đó thôi. Bởi thế xem Tử Bình chỉ cần thuộc lý ngũ hành cho chắc rồi cứ thế luận ra.
Còn xem Tử Vi thì lý ngũ hành không tìm thấy mấu chốt vững chắc để làm cơ sở bàn luận cho nên phải thuộc từng sao, từng cung, sao nào ở chỗ nào, miếu hãm, đắc địa, bất đắc địa để hạ đoán. Tỉ dụ : Trong chương /Đẩu cốt số tuý phú/ quyển I của Tử Vi đẩu số toàn thư có câu :
/Tham Vũ mộ trung cư, tam thập tải phát phúc/ nghĩa là : Sao Tam Lang, Vũ Khúc đóng tại mộ địa (Thìn Tuất Sửu Mùi) ở mệnh cung thì ngoài ba mươi tuổi mới phát. Rồi ở dưới lại có câu giảng rằng : /Tham Vũ bất phát thiếu niên nhân/ (Sao Tham Vũ đi đôi, tuổi thiếu niên không phát được) .
Câu phú trên đây dùng lý ngũ hành âm dương nào mà giảng nếu không nắm được cái nguyên lý ngũ hành đã mang ra áp dụng riêng cho khoa này. Mà cái nguyên lý ấy cho đến nay vẫn chưa thấy ai làm sách giảng ra, sở dĩ vậy là vì nguồn gốc của nó bị thất lạc rồi. Rốt cuộc đoán số trước sau Tử VI chỉ có một chỗ bám vững chắc nhất là các câu phú và những định lý làm sẳn.Có thể ví như định lý tất cả mọi vất đều rơi xuống mà không có lời giảng nguyên nhân rơi xuống của mọi vật là sức hút của trái đất. Dưới đây là tính chất của các sao cùng các cung miếu hãm của mỗi sao ghi trong các chương /Chư tinh vấn đáp luận


SAO TỬ VI
Hỏi :Sao Tử Vi tính chủ những điều gì ?
Đáp: Tử Vi thuộc hành thổ là vị sao ở ngôi tôn trong các vị sao. Mệnh con người ta trước phải căn cứ vào Tử Vi để từ đấy mà lập ra thành số.
Tử Vi ở nơi miếu vượng là cực tốt, rơi vào hãm địa là cực hung.Tử Vi cần đi cặp với Phụ, Bật, Thiên Tướng, Xương Khúc, Khôi Việt, Nhật Nguyệt và Lộc Tồn. Ơ ngôi tô đúng miếu địa Tử Vi có thể làm tiêu bách ác chế như các sao hung hãn như Thất Sát, Hỏa Tinh, Linh Tinh. Tử vi có Lộc Tồn lại thêm Nhật Nguyệt tam hợp chiêu thì quý bất khả ngôn.
Tử vi thiếu Phụ, Bật đồng hành ví như ông vua mất triều thần gọi bằng cô quân, tốt đẹp giảm nhiều lắm. Tử vi gặp toàn sao hung ví như tiểu nhân lấn quyền đuổi quân tử ra đứng đường sẽ trở nên người gian trá bất thiện.
Tử Vi hội Liêm Trinh không thấy tả hữu tướng tá thường làm anh tiểu lại. Tử Vi nên vào cung Mệnh Thân, cung Quan, cung Phúc Đức nếu Tử Vi ngồi tại cung Tật Ach, Nô Bộc là sái, giảm mất uy quyền dù có sự trợ giúp cũng không thành phúc lớn.
Tử Vi đóng vào các cung quan lộc, thân mệnh mà được tam hợp, xung chiếu có Tả Hữu, Thiên Tướng hay Lộc Tồn ngọ Thiên Mã không bị không vong cản trở là quí. Tử Vi mà khuất phục được Thất Sát để dùng Thất Sát làm quyền uy là cách về Võ. Tử Vi nhờ lực Văn Khúc là cách về Văn. Tử Vi ở cung Tài Bạch hay Điền trạch đồng cư cùng Thiên Tướng, Thiên Phủ lại thêm lộc cung và tả hữu hộ vệ tất làm tài phú chi quan. Ơ cung Tử Tức có Tả Hữu thì sinh quí tử, đứng một mình thì cô độc.Hi Di Trần Đoàn tiên sinh viết Tử Vi là đế toà, có thể giáng phúc tiêu tai ở các cung, hoá giải tính ác hư của các sao hung, chế phục Hoả Linh, trị sao Thất Sát, được sự trợ giúp của Tả Hữu, Phủ Tướng đều quyền quí, nếu không được quí thì cũng phú. Bị Tứ Sát xung phá, Tử Vi khả dĩ chống đối đỡ giảm tai hại. Tử Vi gặp Phá Quân tại các cung Thìn, Tuất, sửu, Mùi thì làm tôi bất trung, làm con bất hiếu.Số đàn bà con gái có Tử Vi ở mệnh Tứ Sat xung phá không đến nỗi phải rơi vào cảnh hạ tiện/.
Câu trên đây của Trần Đoàn tiên sinh có đoạn :
/ Tử Vi nhược ngộ Phá Quân tại Thìn, Tuất, Sửu, Mùi chủ vi thần bất trung vi tử bất hiếu/ hơi khác lý thuyết Tử Vi ở nước ta chỉ nói rằng : /Giai bất nhân Phá Quân Thìn Tuất / mà thôi không thấy nói đến Sửu, Mùi đồng thời cho rằng mỗi lần Phá Quân gặp Tử Vi ở Sửu, Mùi Phá Quân bị Tử Vi khuất phục.
Ngọc Thiềm tiên sinh có câu ca về Tử Vi như sau : Tử Vi nguyên thuộc thổ Quan lộc quan chủ tính Hữu tướng vi hữu dụng Vô tướng vi vô quân Chư cung giai giáng phúc Phùng hung phúc tự thân Văn Xương phát khoa giáp Vũ Khúc thu hoàng ân Nữ nhân hội đế toà Ngô cát sự quí nhân Nhược dữ đào hoa hội Phiêu lãng lạc phong trần Kình Dương toả linh tu Thử thiết cẩu thâu quần Tam phương hữu cát củng Phương tác quí nhân bình Nhược hoàn vô phụ bật Chư ác cộng ẩm lăng Đế vi vô đạo chủ.
Nghĩa là :
Tử Vi thuộc hành thổ, chủ tinh về quan tước, phải có tướng tá mới hữu dụng, không tướng tá là ông vua bị vây. Nó khả dĩ giáng phúc cho các cung, gặp hung nó chống đỡ. Đi với Văn Xương thì thi đỗ, đi với Văn Khúc dễ có tước vua ban. Nữ mệnh gặp Tử Vi đi cùng nhiều sao tốt sẽ lấy chồng sang quí. Nếu Tử Vi gặp cùng Đào Hoa, nữ mệnh phiêu lãng phong trần. Tử Vi tụ tập với Kình Dương, Hoả, Linh là chơi với phường ăn cắp chỉ đi du thủ du thực. Tam phương phải thấy sao tốt hội cùng Tử Vi mới có thể gọi là quí. Thiếu Tả Phụ, Hữu Bật để các ác tính uống rượu lăng nhục chủ là loại vua vô đạo.Tử Vi miếu ở cung Dần Ngọ, vượng địa ở cung Thân Hợi, Thìn Tị, Tí, Sửu, Mùi, Bình thường Mão Dậu. Sao này không có hãm địa vì nó tự giải cứu được.
Những câu phú về Tử Vi ghi trong đẩu số toàn thư gồm có :
- Tử Vi cư Tí Ngọ, Khoa, Quyền Lộc chiếu tối vi kỳ (Tử Vi ngồi ở cung Tí cung Ngọ được Khoa Quyền Lộc tam phương chiếu tới gọi là cách ngưỡng diện triều đẩu, số rất kỳ lạ) .
- Tử Vi nam Hợi nữ Dần cung, Nhâm Giáp sinh nhân phú quí đồng. (Sao Tử Vi số con trai đóng tại cung Hợi, số con gái đóng tại cung Dần, những người tuổi Giáp tuổi Nhâm đều phú quí).
- Tử Vi Mão Dậu Kiếp Không, Tứ Sát đa vi thoát tục chi tăng.(Tử Vi ngồi ở cung Mão cung Dậu bị Tứ Sat) là Kinh, Đà, Hoả, Linh vây hãm cùng với Kiếp Không chỉ nên đi tu cho thoát tục là tốt hơn cả).
- Tử Vi Thiên Phủ toàn y phụ bật chi công. (Tử Vi và Thiên Phủ cần dựa vào hai sao Tả Phụ Hữu Bật mới dễ bề phú quí).
- Tử Phủ đồng cung vô sát tấu, Giáp nhân hưởng phúc chung thân. (Hai sao Tử Vi, Thiên Phủ đồng cung ở Dần và Thân thủ mệnh, những người tuổi Giáp hưởng phúc suốt đời nếu không gặp những sát tinh làm hỗn ).
- Tử Phủ đồng cung lâm Tị Hợi nhất triều phú quí song toàn. (Tử Vi, Thiên Phủ ở cùng một cung Tị hoặc Hợi thì được cả giàu lẫn sang).
- Tử Phủ triền viên, lộc phùng chung thân phúc hậu chí tam công. (Tử Vi, Thiên Phủ cùng ở Thân hoặc Dần lập mệnh lại thêm các sao tốt khác nhất là sao Lộc Tồn suốt đời phúc hậu, chức đến tam công).
- Tử Vi, Phụ Bật đồng cung nhất hô bách nặc. (Tử Vi, cùng ở một cung với hai sao Tả Phụ, Hữu Bật gọi một lời trăm người thưa. Nếu Phụ Bật ở tam hợp hay xung chiếu thì không tốt bằng).
- Tử Phủ hiệp mệnh vi qui cách. (Hai sao Tử Phủ giáp cung mệnh là quí cách).
- Tử Phủ Kình Dương tại cự thương. (Tử Vi Thiên Phủ hội với Kình Dương nếu được Vũ Khúc ở cung Thiên Di chiếu sang càng hay, số doanh thương lớn).
- Tử Vi, Xương Khúc phú quí khả kỳ. (Tử Vi hội cùng hai sao Văn Xương, Văn Khúc có thể ngồi đợi giàu sang tới).
- Tử Lộc đồng cung Nhật Nguyệt chiếu, quí bất khả ngôn. (Tử Vi cùng một cung với Lộc,có Thái Âm , Thái Dương chiếu, đại quí tộc).
- Tử Vi, Thất Sát, Hoá Quyền phản tác trinh tường. (Tử Vi chế phục Thất Sát lại có Hoá Quyền, công danh hiển đạt).
- Tử Vi, Phá Quân vô Tã Hữu cát diệu hung ác tế lại chi đồ. (Sao Tử Vi đi với Phá Quân, không thấy có Tả Hữu hay sao tốt là loại ác bá cường hào).
- Tử Vi, Vũ Khúc, Phá Quân hội Dương Đà khi công hoạ loạn. (Các sao Tử Vi, Vũ Khúc, Phá Quân đi cặp hội với Kình Dương, Đà La, người ưa gây rối, phản bội, chỉ nên buôn bán chớ ham chức vị).
- Tử Vi, Quyền Lộc ngộ Dương Đà, tuy hoạch cát nhi vô đạo. (Tử Vi mặc dầu có Quyền Lộc chiếu mà gặp Dương Đà sang quí nhưng tâm bất chính).
- Tử Vi, Thất Sát gia không vong hư danh thụ ẩm. (Đi với Thất Sát lại gặp sao Thiên Không, chỉ có hư danh, hưởng chút tiếng tăm của ông cha lưu cho con cháu).
- Tử Phá lâm mệnh ư Thìn, Tuất, Sửu, Mùi tái gia cát diệu phú quí kham kỳ. (Đi cặp cùng Phá Quân ở các cung Thìn, Tuất, Sửu, Mùi được nhiều cát tinh trợ giúp là số phú quí nhưng lòng gian tham, quỷ quyệt).
- Tử Phá Thìn, Tuất quân thần bất nghĩa. (Tử Vi, Phá Quân ở hai cung Thìn, Tuất, vua tôi bất nhân bất nghĩa).
- Tử, Phá, Tham Lang vi chí dâm, Nam nữ tà dâm. (Các sao Tử Vi, Tham Lang, Phá Quân tụ lại với nhau là người đa dâm, trai hay gái tà dâm. Phú nôm của tiền nhân ta có câu : Tử, Tang Tả Hữu hội trung. Có người con gái lộn chồng tìm chẳng hiểu có phải căn cứ ở câu phú chữ ở trên không. Theo các cụ, số con gái Tử Vi thủ mệnh không cần hội ngộ Tả Phụ Hữu Bật. Chữ tang đây là Tang Môn, hay là chữ Tham. Đó là điểm đáng thắc mắc. Có lẽ chữ Tham đúng hơn vì saoTham Lang trong Tử Vi đẩu số toàn thư là đào hoa tinh).
- Nữ mệnh Tử Vi, Thái Dương tinh, tảo ngộ hiền phu tín khả bằng. (Số con gái, Tử Vi hay Thái Dương thủ mệnh sớm gặp chồng hiền) .
- Nữ mệnh Tử Vi tại Dần, Ngọ Thân cung cát quí mỹ vượng phu ích tử, hãm địa bình thường. (Số con gái tử Vi thủ mệnh đóng cung Dần, Ngọ, Thân gặp các sao tốt trợ giúp thì vượng phu ích tử, nếu rơi vào hăm địa bình thường. Nếu Tử Vi đóng ở các cung tí Dậu, Tị Hợi mà gặp Tứ Sát thì không toàn vẹn phúc lộc cả đời) .
- Tử Vi cư Ngọ vô Hình Kị, Giáp, Đinh, Kỷ mệnh chí công khanh. (Sao Tử Vi đóng tại cung Ngọ, không gặp sao Thiên Hình Hoá Kị người tuổi Giáp, tuổi Đinh, tuổi Kỷ làm tới công khanh)


SAO THIÊN CƠ

Hỏi : Thiên Cơ tinh chủ những điều gì ?
Đáp : Sao Thiên Cơ thuộc hành mộc, là nam đẩu tinh, hoá khi sao này là thiện tinh. Nếu đắc địa nó có thể điều chỉnh lẽ thuận nghịch cho số mệnh. Thiên cơ thủ mệnh lại thêm các sao tốt hợp lại dễ thành công, đa mưu túc trí. Bản chất sao này là thiện tâm không ưu điều bất nhân, bất nghĩa cho nên gặp lúc bất đắc chí thường ưa ở ẩn chốn lâm tuyền và dễ say mùi đạo.Nữ mệnh có sao Thiên Cơ gặp hung càng hung, gặp sát càng sát, nếu đi cặp cùng Thiên Lương là người đàn bà tháo vát khéo léo, nội trợ giỏi. Hi Di Trần Đoàn tiên sinh viết :
/ Thiên Cơ ích thọ chi tinh, thủ Thân mệnh cung là người dị thường giao hội cùng các sao thiên Lương, Tả Hữu, Xương Khúc làm quan văn thì thanh hiền, làm vũ chức thì trung lương. Nếu ở hãm địa gặp Tứ Sát xung phá là hạ cách. Thiên Cơ ngộ Thiên Lương, Thất Sát nên tìm đến cảnh thanh nhàn của tăng đạo. Đại tiểu hạn gặp Thiên Cơ sẽ thay đổi công việc, lập cơ sáng nghiệp. Nữ mệnh Thiên Cơ có nhiều sao tốt củng chiếu vượng phu ích tử, nếu có Quyền Lộc sẽ là mệnh phụ phu nhân, không may mà gặp Kình Đà, Hoá, Kị xung phá thành ra đàn bà hạ tiện khắc phu hại tử /.
Ngọc Thiềm tiên sinh làm bài ca về sao Thiên Cơ như sau :
Thiên Cơ huynh đệ chủ Nam đẩu chính diệu tinh Tác sự hữu thao lược Bẩm tính tối cao minh Sở vi tối hảo thượng Diệc khả tác quần anh Hội cát chủ hưởng phúc Nhập cách cư hàn lâm Cự Môn đồng nhật ví Vũ chức yểm biên đình Diệc yêu quyền phùng sát
Nghĩa là :
Phương khả lập công danh
Thiên Lương tinh đồng vị
Định tác đạo dữ tăng
Nữ nhân nhược phùng thử
Tính sảo tất dâm bòn
Thiên Đồng dữ Xương Khúc
Tụ củng chủ hoa vinh
Thìn Tuất Tí Ngọ địa
Nhập miếu hữu công danh
Nhược tại Dần Mùi Sửu
Thất Sát tinh Phá Quân
Huyết quang tai bất trắc
Dương Đà cập Hoả Linh
Nhược dữ chư sát hội
Tai hoa hữu hư kinh
Lưỡng hạn làm thử tú
Sự tất hữu biến canh
Thiên Cơ sao của trí tuệ, mưu cơ và nhân nghĩa nên đồng bạn bè thủ túc, làm việc thao lược cao minh, gặp nhiều sao tốt trợ lực nổi ti61ng văn chương, đi cặp cùng sao Cự Môn khả dĩ lên cao với võ nghiệp nhưng Thiện Cơ lại rất cần Quyền Sát công danh mới oanh liệt. Hội cùng sao Thiên Lương dễ chán trần tục ưa miền tăng đạo. Nữ mệnh Thiên Cơ hãm địa chủ dâm bòn, nếu được Thiên Đồng, Xương Khúc thì vinh hoa. Các cung Tí, Ngọ là miếu địa của Thiên Cơ. Bình thường Tị Hợi, Thìn Tuất, hãm địa là Sửu, Mùi ngộ Phá Quân, Tứ Sát, Hoả Linh, Dương Đàdễ xảy ra tai hoạ. Đại tiểu hạn gặp hiên Cơ thì công việc thay đổi /.
Những câu phú về Thiên Cơ ghi trong Tử Vi đẩu số toàn thư gồm có:
- Cơ lương đồng chiêu mệnh Thân không thiên nghi tăng đạo. (Thân hoặc mệnh gặp Không Vong, Thiên Cơ đơn thủ Thiên Lương chiếu nên đi tu).
- Cơ lương hội họp thiện đàm binh, cư tuất diệt vi mỹ luận. ( Thiên Cơ hội với sao Thiên Lương giỏi bàn việc quan, số ông Mạnh Tử cung thiên Di đóng ở Tuất có hai sao Cơ, Lương).


- Cơ Lương thủ mệnh gia cát diệu phú quí từ tường. (Thiên Cơ, Thiên Lương thủ mệnh thêm các sao tốt, phú quí. Nếu gặp Thiên Hình, Hóa Kị dễ chán mùi thế luỵ).
- Cơ Nguyệt đông lương tác lại nhân. (Mệnh thân và các cung tam hợp xung chiếu có đủ bốn sao trên đây nếu không có những cát tinh khác trợ lực chỉ làm công chức quèn. Gặp Kiếp Không Hoá Kị xuống hạ cách).
- Thiên Lương Tham Nguyệt đồng cơ hội, mộ dạ kinh thương vô miên thuỵ. (Các sao Thiên Lương, Thái Âm , Thiên Đồng hội cùng thiên Cơ ngày đêm tảo tần buôn bán, gặp hung tinh tất phải bôn ba).


- Thiên Cơ gia ác sát đồng cung, cầu du thử thiết. (Cùng ở một cung có quá nhiều ác sát bao vây Thiên Cơ).
- Cự hãm Thiên Cơ vi Phá Cách. ( Cự Mộ ở hãm địa gặp thiên Cơ là Phá Cách, đàn bà mệnh đóng tại Dần Thân Mão Dậu gặp Thiên Cơ, Cự Môn tuy phú quí nhưng dâm dục, hạ tiện).


SAO THÁI DƯƠNG

Hỏi : Sao Thái Dương chủ những điều gì ?
Đáp : Thái Dương tinh thuộc hoả, tinh hoa của ban ngày, biểu nghi của tạo hoá. Ơ số mệnh là quí khí của con người năng văn năng vũ. Hội tụ với các sao cát thì giáng phúc trinh tường, hội với các ác tinh thì uổng công phí lực như mậy bị che lấp. Thái Dương cư thân mệnh cung tại miếu địa sẽ sáng rực rỡ cho công danh con người. Hoá khí của sao Thái Dương là vừa Quí vừa Lộc cho nên cung quan lộc mà có Thái Dương cực tốt. Nữ mệnh lấy thái dương làm phu chủ, thêm Thái Âm chiếu nữa thì phú quí toàn mỹ. Sao này đóng tại cung Thân gặp nhiều sao cát thường gần những người cao sang quyền thế. Nếu nó vào cung Tử Tức sẽ sinh quí tử. Vào cung Tài Bạch được trợ lực, giàu có lâu bền. Đại tiểu hạn gặp Thái Dương thêm Tả Hữu khả dĩ dựng nghiệp.Thái Dương bị Hình Kị dễ hư mắt hoặc khắc phụ mẫu. Đại tiểu hạn Thái Dương đa sát tụ tất có mội lo về quan tụng. Thái Dương ở cung Thiên Di thường ly tổ nghiệp đi xa làm ăn.
Hi Di Trần Đoàn tiên sinh viết :
/ Sao Thái Dương trên vòm trời chu chuyển vô cùng ưa Phụ, Bật cần Lộc Tồn, nếu đi cặp với Thái Âm càng đẹp, ghét Cự Môn hãm địa che ánh sáng. Tại miếu vượng địa hội Hoá Lộc, Hoá Quyền gọi quí cách. Được Xương Khúc Khôi Việt tam hợp củng chiếu vào Quan Lộc hay Bài Tạch đại phú quí. Nữ mệnh miếu vượng chủ vượng phu ích tử, nếu gặp sát thì bình thường/.
Ngọc Thiềm tiên sinh có bài ca rằng :
Thái Dương nguyên thuộc hoả
Chính chủ Quan Lộc tinh
Nhược cư thân mệnh vị
Bẩm tính tối thông minh
Từ ái lượng khoan đại
Phúc thọ hưởng hà linh
Nhược dữ Thái Âm hội
Sàu phát quí vô luận
Hữu huy chiếu Thân mệnh
Bình bộ nhập kim môn
Cự Môn bất tương phạm
Thăng điện thừa quân ân
Thiên viên phùng ám độ
Bần tiện bất khả ngôn
Nam nhân tất khắc phụ
Nữ mệnh phu bất toàn
Hỏa Linh phùng nhược định
Dương Đà nhãn mục hôn
Nhị hạn nhược trí thử
Tất định mại điền viên
Nghĩa là :
Sao Thái Dương thuộc hành hoả, là Quan Lộc tinh, ở cung Thân mệnh bẩm tính thông minh, từ ái và khoan hậu đại phúc, đại thọ. Nếu có thêm Thái Âm hội tụ phát quí vô cùng. Anh sáng Thái Dương chiếu vào Thân mệnh dễ đi đến cửa vàng cung điện. Gặp Cự Môn nơi hãm địa lại bần tiện vô tả, nữ mệnh chồng không vẹn toàn. Tứ Sát, Dương Đà, Hoả Linh vây hãm thì bị đau mắt, hạn Thái Dương có Tứ Sát sung phá bán hết gia nghiệp.
Những câu phú về sao Thái Dương ghi trong Tử Vi đẩu số toàn thư gồm có :
- Thái Dương miếu địa Ngọ, Mão vượng địa Dần, Thìn, Tị, hãm Tuất, Hợi, Tí.
- Nhật chiếu lôi môn, Tí Thìn, Mão địa, trú sinh nhân, phú quí thanh dương. (Thái Dương đứng trong cung Tí, Thìn, Mão, Dậu là mặt trời chiếu cửa sấm, người sinh ban ngày phú quí nổi danh).
- Thai Dương cư Ngọ, Canh Tân Đinh Kỷ nhân phú quí song toàn. ( Thái Dương ở Ngọ cung, người tuổi canh tân đinh kỷ, phú quí song toàn) .
- Thái Dương, Văn Xương tại Quan Lộc, hoàng điện triều ban. (Sao Thái Dương gặp Văn Xương tại cung Quan Lộc làm quan trong triều đình, Văn Khúc cũng vậy).
- Thái Dương, Hoá Kị thị phi nhật hữu mục hoàn thương. (Gặp Hoá Kị, mắt hư đau bất ngờ).
- Nhật lạc Mùi, Thân tại mệnh vị vi nhân tiên cần hậu lăn. (Mệnh đóng cung Thân,Mùi có sao Thái Dương con người chóng chán, trước chăm chỉ sau lười biếng).
- Nữ mệnh doan chính Thái Dương tinh, tảo phối hiên phu tin khả bằng. (Số đàn bà, Thái Dương thủ mệnh đắc định là người đoan chính, sớm lấy chồng hiền).






http://www.phongthuyquan.vn/index.php?option=com_content&view=article&id=157%3At-vi-u-s-toan-th-v-tai-lc-&catid=40%3Akienthucphongthuy&Itemid=82&limitstart=2

Comments

Popular Posts